This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Bài viết hay. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Bài viết hay. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 7 tháng 3, 2013

Charles Sanders Peirce (1839 – 1914), Người sáng lập chủ nghĩa thực dụng Mỹ

CHARLES SANDERS PEIRCE (1839 – 1914)
NGƯỜI SÁNG LẬP CHỦ NGHĨA THỰC DỤNG MỸ
NGUYỄN VĂN HÙNG (*)

Trong suốt thời gian hơn năm mươi năm vật lộn với công việc nghiên cứu khoa học và giảng dạy, Charles S. Peirce đã có được nhiều thành tựu xuất sắc không chỉ trên lĩnh vực triết học, lôgíc học, tôn giáo học, mà cả trên các lĩnh vực khoa học tự nhiên, như toán học, vật lý học, hóa học, trắc địa học và lịch sử khoa học. Ông còn có những cống hiến nhất định trong lĩnh vực tâm lý học, thần giao cách cảm, tội phạm học, Ai Cập học, lịch sử cổ đại và cả về Hoàng đế Napoleon. Để có được những cống hiến này, ông đã học tiếng Latinh, tiếng Đức, tiếng Hy Lạp và tiếng Anh cổ. Mặc dù có nhiều cống hiến như vậy, nhưng khi còn sống, tài năng trên nhiều lĩnh vực của ông lại chưa được giới học thuật thừa nhận. Mọi cố gắng và nỗ lực nghiên cứu khoa học mà ông bỏ ra cũng chỉ giúp ông xuất bản được một tác phẩm khi còn sống – Về vật lý học vũ trụ. Ngay cả yêu cầu chính đáng của ông là được giảng dạy chính thức tại các trường đại học cũng không được chấp nhận. Khó khăn trong tìm kiếm việc làm để đáp ứng nhu cầu sống, dù là tối thiểu, đã không thể ngăn cản nổi việc ông say sưa với sáng tạo lý luận. 27 năm cuối đời sống trong cảnh thiếu thốn ở một thành phố nhỏ bé – Milford thuộc bang Pennsylvania, ông vẫn viết mỗi ngày khoảng 2000 từ. Những người láng giềng sống cạnh ông xem ông như một con người kỳ quặc, khác thường và gọi ông là “Giáo sư Peirce”, mặc dù chưa bao giờ ông là giáo sư. Ông mất năm 1914 trong cảnh cô đơn bởi căn bệnh ung thư.
Đọc thêm »

Thứ Ba, 5 tháng 2, 2013

GIỚI THIỆU DANH NHÂN TRIẾT HỌC - ALFRED NORTH WHITEHEAD

GIỚI THIỆU DANH NHÂN TRIẾT HỌC - ALFRED NORTH WHITEHEAD NHÀ SIÊU HÌNH HỌC CỦA THẾ KỶ XX

ALFRED NORTH WHITEHEAD
Alfred North Whitehead (1861 – 1947) – nhà triết học, lôgíc học, toán học, phương pháp luận khoa học và lý luận giáo dục người Anh. Ông học tại trường Sherborn và Trinity ở Cambridge. Sự nghiệp khoa học của ông bao gồm ba giai đoạn chính, hai ở Anh và một ở Mỹ. Ngay sau khi tốt nghiệp Trường Trinity, ông được giữ lại trường và giảng dạy toán học trong 25 năm liền. Đây là giai đoạn ông hợp tác với B.Russell viết chung tác phẩm nổi tiếng Những nguyên lý toán học(1). Từ năm 1911 đến năm 1924, ông chuyển đến London dạy toán học ứng dụng và cơ học tại Đại học London. Trong thời gian này, ông được bầu là thành viên của Hội khoa học Hoàng gia và Viện Hàn lâm Anh. Từ năm 1924 đến năm 1936, ông đến Mỹ, chuyên tâm nghiên cứu và giảng dạy triết học tại Đại học Havard và là giáo sư danh dự của trường này cho đến cuối đời.

A.N.Whitehead được thừa nhận là nhà siêu hình học của thế kỷ XX, bởi điều mà ông quan tâm trong khoa học tự nhiên hiện đại là hàng loạt vấn đề của chính triết học và siêu hình học. Vào cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, khi khoa học tự nhiên hiện đại đã có sự phát triển mạnh mẽ, bùng nổ các phát minh và đạt được những đỉnh cao mới, A.N.Whitehead cùng với H.Berson (1859 – 1941, nhà triết học Pháp) đã đặt ra những câu hỏi và các giả định siêu hình về phương thức tư duy của khoa học. Không giống như một số nhà tư tưởng thời kỳ này phản ứng chống lại tinh thần khoa học, A.N.Whitehead thừa nhận khoa học đã giúp con người trong việc làm chủ thiên nhiên. Những tiên đề chính của khoa học thời kỳ này là: thiên nhiên gồm những vật thể vật chất chiếm chỗ trong không gian; vật chất là chất liệu cơ bản không thể giản lược được và mọi vật được cấu thành từ đó. Khuôn mẫu tư duy phân tích được đề cao, do vậy, bản chất và sự vận động của tự nhiên được các nhà khoa học cho là giống như cái máy. Mọi sự vật đặc thù trong tự nhiên giống như các bộ phận của một cái máy lớn. Các vật thể chuyển động trong không gian phù hợp với các quy tắc chính xác của toán học. Bản chất của con người cũng được nhìn nhận theo tư duy máy móc này, con người không còn tự do ý chí nữa.
Đọc thêm »

Thứ Sáu, 25 tháng 1, 2013

ĐẠO VÀ ĐỜI

ĐẠO VÀ ĐỜI

Ảnh sưu tầm
Nhiều bạn mới phát tâm mộ Đạo thường hay bối rối, không biết tìm con đường Đạo ở nơi nào và phải làm gì để gặp Chơn Sư (Thầy Tiên) thoát khỏi đọa Luân Hồi, sớm nhập Niết Bàn, thung dung tự tại.

Nhưng khi bạn đã chấp nhận rằng Luật Nhân Quả vẫn có, nó không hề sai lầm và cũng không bao giờ thiên vị, là bạn đã thấy đúng con đường Đạo rồi. Từ đây bạn chỉ cần bền chí bước đi cho đến ngày giải thoát.

Đường Đạo là con đường dốc và hẹp, phải vượt lên cao cho nên có phần mệt nhọc, ít người theo, đối với Đời nó là con đường buồn tẻ; trái lại, con đường Đời bê tha, phóng túng, thì thênh thang, hấp dẫn; vì xuống dốc rất dễ dàng và có nhiều người đi nên trông nó có vẻ rộn rịp, vui nhộn, khiến ai cũng ham thích và đua chen sa ngã.

Nhưng Luật Trời là Luật Tiến Hóa, nên dầu cho nhơn loại có mê đắm dục vọng đến bực nào, sau rốt cũng đến ngày quày đầu hướng thiện để trở về với Đạo. Nếu kiếp nầy chưa dừng bước để trở lại theo Đạo, thì một vài kiếp sau, khi chịu nhiều khổ não, gian truân, chán nản lợi danh, phai mờ dục vọng, chừng ấy họ cũng phải tỉnh ngộ và tìm đường phản bổn hườn nguyên.
Đọc thêm »

Thứ Năm, 24 tháng 1, 2013

HÔM NAY VỚI NHO GIÁO

HÔM NAY VỚI NHO GIÁO
(Nguyễn Đình Chú)

Khổng Tử được coi là người sáng lập ra Nho giáo.
Không phải hôm nay mới nói chuyện Nho giáo. Nhưng hôm nay, nói chuyện Nho giáo chắc hẳn là phải từ một tâm thế mới mà thời đại mới đã cho phép. Cái tâm thế mới đó trước hết là tinh thần tự do tư tưởng (dĩ nhiên là tự do tư tưởng nghiêm túc, thực sự cầu thị).

Cái tâm thế mới đó cũng là niềm ước mong tha thiết làm sống lại những giá trị đích thực của Nho giáo đặng có thể góp phần xây dựng cuộc sống tinh thần và xã hội Việt Nam ta trên đà tiến hoá hôm nay và mai sau, chứ hoàn toàn không nên ngừng lại ở mức sách vở, tư biện, nói chuyện suông như đã vốn có. Hãy nhớ rằng việc nghiên cứu Nho giáo là chuyện của các nhà khoa học. Nhưng chuyện quan tâm đến vai trò Nho giáo trong đời sống Việt Nam hôm nay thì còn là của nhiều người, ít ra là các bậc thức giả hay suy nghĩ về đạo lý truyền thống, về tình trạng đạo đức hôm nay trên đất nước mà từ đó thường lại phải tìm nguyên nhân. Hãy nhớ rằng chuyện Nho giáo không chỉ là chuyện của Trung Quốc, Việt Nam, mà còn là chuyện của nhiều nước trong đó có Nhật Bản... mà gần đây, qua tài liệu này khác, người Việt Nam hơi ngạc nhiên khi biết rằng: để có được một nước Mặt trời chói lọi, siêu cường, thần kì như ngày nay, hẳn là có vai trò không nhỏ của Nho giáo, dĩ nhiên là một thứ Nho giáo đã được Nhật Bản hoá.
Đọc thêm »

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

ĐẠO LÀM NGƯỜI THEO TINH THẦN NHO HỌC Ở CHU VĂN AN

ĐẠO LÀM NGƯỜI THEO TINH THẦN NHO HỌC Ở CHU VĂN AN


(NGUYỄN BÁ CƯỜNG (*))

Bài viết tập trung làm sáng tỏ đạo làm người ở Chu Văn An thể hiện qua tính cách kẻ sĩ của ông. Theo tác giả, Chu Văn An là nhà nho sống có lý tưởng, ông hành đạo để chính sự và giáo hóa được đổi mới. Suốt đời ông cống hiến cho sự nghiệp giáo dục, đạo làm người mà ông thực hiện và giáo dục học trò là đạo làm người theo tinh thần Nho giáo. Với cốt cách thanh cao, tinh thần trong sáng, trí tuệ sâu sắc và đạo học vững vàng, ông là một nhân cách lớn, đứng đầu trong lịch sử giáo dục Nho học nước nhà.

Trong nhiều năm gần đây, Nho giáo (hay Nho học) Việt Nam được quan tâm nghiên cứu trên nhiều phương diện, đặc biệt là đóng góp của nó đối với truyền thống văn hóa, tư tưởng và giáo dục của dân tộc. Truyền thống giáo dục nước ta được khơi nguồn từ tinh thần hiếu học của dân tộc, được khích lệ bởi sự phát triển của khoa cử theo tinh thần Nho học trong các triều đại phong kiến và kết tinh trong tư tưởng, nhân cách của nhiều nhà nho tiêu biểu, như Chu Văn An, Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Lê Quý Đôn, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Đức Đạt, Đặng Huy Trứ, Phan Bội Châu, v.v.. Trong đó, Chu Văn An được coi là một trong những tấm gương tiêu biểu nhất của nền giáo dục Nho học Việt Nam. Nguyên nhân đưa Chu Văn An đến vị trí đó phải chăng chính là bởi những cống hiến cho sự nghiệp giáo dục và nhân cách của ông với tư cách một hình mẫu tiêu biểu của đạo làm người. Và, phải chăng đạo làm người mà ông đề xướng và thực hiện không chỉ là tấm gương cho nhà nho, nhà giáo, mà còn là tấm gương soi chung cho mọi người, tùy theo từng mối quan hệ xã hội nhất định và trong hoàn cảnh lịch sử - cụ thể? Bởi vậy, nghiên cứu những vấn đề trên không chỉ có ý nghĩa đối với việc khẳng định vị trí của Chu Văn An trong tâm thức dân tộc với tư cách một người thầy tiêu biểu, mà còn có ý nghĩa đối với việc xây dựng con người Việt Nam mới hiện nay.
Đọc thêm »

Thứ Ba, 22 tháng 1, 2013

NHO GIÁO VỚI LỊCH SỬ VIỆT

NHO GIÁO VỚI LỊCH SỬ VIỆT

Hiện diện trong nhiều thế kỷ như một mô hình tổ chức và quản lý xã hội mang tính chất chính thống, một phương thức hoạt động và phát triển văn hóa đóng vai trò chủ đạo, Nho giáo đã để lại ảnh hưởng sâu đậm của nó trong lịch sử và văn hóa Việt Nam, những ảnh hưởng vẫn tiếp tục tác động tới đời sống xã hội Việt Nam sau thế kỷ XIX. Là một giá trị ngoại sinh được tiếp nhận và vận dụng như một học thuyết chính trị để xây dựng và bảo vệ đất nước, một hệ thống chuẩn mực để tổ chức và quản lý xã hội, Nho giáo sau thời Bắc thuộc cũng được khuôn nắn lại về nội dung và cơ cấu rồi trên cơ sở đó trở thành một yếu tố vừa góp phần thực hiện vừa góp phần phản ảnh tiến trình lịch sử Việt Nam. Tìm hiểu Nho giáo với con đường phát triển và ảnh hưởng văn hóa của nó trong lịch sử Việt Nam do đó có thể góp thêm nhiều dữ kiện vào việc nghiên cứu lịch sử Việt Nam nói riêng cũng như lịch sử Nho giáo nói chung.
Đọc thêm »

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

Lễ Nghĩa trong nền đạo đức Khổng - Mạnh

LỄ NGHĨA 
TRONG NỀN ĐẠO ĐỨC KHỔNG MẠNH

1. Đặt Lại Vấn Đề - Vai trò của Lễ Nghĩa.

Hình tham khảo
Luận văn sau đây nhắm tìm hiểu vai trò của của lễ nghĩa trong nền đạo đức Khổng Mạnh. Chúng tôi đặc biệt chú ý tới vai trò của lễ nghĩa vì nhiều lý do, trong đó có một lý do rất quan trọng, đó là vai trò của lễ nghĩa đã hòa lẫn vào trong huyết quản của người Việt. Quá sâu đậm đến độ văn hóa, cách thẩm định giá trị của người Việt không thể tách rời khỏi quan niệm lễ và nghĩa. Nhưng cũng vì gốc rễ nó đâm sâu gắn chặt vào cuộc sống, nên cái lễ cũng là một trở ngại khiến xã hội Việt không dễ tiến bộ. Sự quá trọng nghi lễ đến độ nô lệ vào hình thức cuả nghi mà quên đi tinh thần của lễ, đã làm xã hội đông phương nói chung, và xã hội Việt nói riêng trì trệ. Cái tính nệ nghi thức không chỉ khiến con người viễn đông thiếu suy tư và thụ động, nó còn bóp nghẹt tình cảm con người. Và đây là cái cớ khiến nhóm trí thức theo Tây phương đã kịch liệt đả phá lễ nghĩa Nho giáo.[1]

Luận văn của chúng tôi không chối bỏ công lao của những người từng phá núi đắp sông, biến bãi biển thành ruộng dâu trong lãnh vực văn hóa, những bậc đại nho đã từng gây dựng nền văn hóa dân tộc. Chúng tôi củng không phủ định những đóng góp của những người phê bình Nho giáo. Những vị sau đã nhìn ra sự nguy hại của tinh thần lệ lễ, tình trạng chậm chạp vì quá trọng hình thức và sự thiếu suy tư vì quá nô lệ vào những lễ nghi, những tập tục. Đi xa hơn, qua luận văn này, chúng tôi theo một cái nhìn khách quan, tìm cách đào sâu, tìm hiểu thêm tinh thần của lễ nghĩa. Tuy nhắm khôi phục tinh thần lễ nghĩa, chúng tôi cũng ý thức được cái ma lực của lễ, và do đó cùng lúc muốn phá bỏ huyền thoại quá lệ thuộc vào nghi lễ mà những nhà hủ nho từng khư khư ôm vào. Qua công việc khôi phục lại cái địa vị vốn có của lễ nghĩa, luận văn này tiếp tục chương trình đào bới lại cái giá trị của nền đạo nghĩa Việt mà chúng tôi đã bắt đầu vào những năm gần đây.[2] Luận văn gồm hai phần chính: phần thứ nhất tìm hiểu chữ lễ trong văn bản của Nho học, đặc biệt trong Luận Ngữ, Mạnh Tử, Lễ Ký, và phần nào đó trong tư tưởng của Tuân Tử; phần thứ hai đi xa hơn, nhắm khơi quật và đào sâu tư tưởng Việt qua việc phân tích và nhận định sự biến chuyển từ quan niệm lễ trong triết học Trung Hoa tới cách sống theo lễ trong cuộc sống của người Việt. Chúng tôi đặc biệt tìm hiểu sự liên quan mật thiết giữa chữ lễ và chữ nghĩa, một đặc điểm mà ta thấy ít có (hay hiếm hoi) trong lối tư duy của người phương Bắc. Mạnh Tử đã từng nhấn mạnh tới nhân nghĩa, và phần nào đó lễ nghĩa,[3] nhưng chỉ nơi Việt Nho, chúng ta mới thấy tầm quan trọng của nghĩa.[4] Nếu những nhận xét của các học giả như cố Giáo sư Trần Đình Hượu, các Giáo sư Trần Quốc Vượng và Phan Đại Doãn tại Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn Hà Nội có căn bản, thì đối với các nho gia Việt, và ngay cả giới bình dân Việt, lễ nghĩa mới thực là quan trọng. Nếu chỉ có lễ, tức chỉ có hình thức, thì đó chỉ là tính chất bên ngoài, chứ chưa có thể nói lên được cái bản chất của lối sống của người Việt. Từ những nghiên cứu này, chúng tôi muốn chứng minh, lễ mà thiếu nghĩa sẽ bị sa đọa vào cái hố trọng hình thức thiếu nội dung, nhưng nếu thiếu lễ, nghĩa trở lên trống rỗng. Nói theo kiểu bình dân, lễ là cái vỏ, trong khi đó, nghĩa là cái ruột; và nói theo ngôn ngữ Aristotle, thì lễ là mô thức (forma) và nghĩa là chất liệu (materia).
Đọc thêm »

Thứ Bảy, 19 tháng 1, 2013

Tư tưởng Nhân của Khổng Tử và Mạnh Tử

Tư tưởng Nhân của Khổng Tử và Mạnh Tử

Hình tham khảo từ Internet
(TG&DT) - Mạnh Tử có tin tuyệt đối ở mệnh trời đi nữa, nhưng qua thuyết tính thiện, ông tin con người đều có thể trở thành người tốt. Ông nói: “Phàm những vật đồng loại đều có tính giống nhau. Tại sao riêng về nhân loại người ta lại nghi ngờ rằng bản tính chẳng giống nhau? Bậc thánh nhân với ta đều là một loại, tức đều có tâm tính hết thảy giống nhau.”

I. DẪN NHẬP
Nho gia là một trong những học thuyết ảnh hưởng lớn đến đời sống văn hóa và tư tưởng phương Đông từ xưa đến nay.
Đọc thêm »

Chủ Nhật, 30 tháng 12, 2012

Nho giáo trong tương lai văn hoá Việt Nam


Nho giáo

trong tương lai văn hoá Việt Nam

Việt Nam là một quốc gia thuộc vùng chịu ảnh hưởng của Nho giáo (Nho giáo văn hoá khuyên). Nho giáo đã từng ảnh hưởng toàn diện và sâu sắc tới xã hội Việt Nam thời kỳ trung cận đại. Trải qua những chuyển biến xã hội, văn hoá thế kỷ 20, Nho giáo đã mất địa vị độc tôn, chính thống và luân lạc trong dân gian như nhiều quốc gia khác trong khu vực Ðông Á. Vấn đề đặt ra là, qua những biến động của thế kỷ 20, Nho giáo có còn tồn tại hay không? Nó ảnh hưởng tới các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, tư tưởng của thế kỷ 21 như hệ thống thế nào? Người ta có thể đoán định về vận mệnh của nó trong tương lai hay không? Thái độ khoa học cần phải có đối với Nho giáo trong tương lai như thế nào? Bài viết đặt mục tiêu góp phần giải đáp những vấn đề đó. Tuy nhiên, đoán định về ảnh hưởng của Nho giáo trong xã hội Việt Nam thế kỷ 21 là công việc lớn, phức tạp và luôn là quá sức đối với bất kỳ một cá nhân nào. Bài viết này tỏ một vài ý kiến còn ở mức độ nông cạn, bước đầu thậm chí còn ở mức cảm tính về vấn đề nan giải nhưng cấp bách đang đặt ra.
Đọc thêm »

Thứ Tư, 14 tháng 11, 2012

TRUYỀN KỲ VỀ BÁT TIÊN: LÃ ĐỘNG TÂN

TRUYỀN KỲ VỀ BÁT TIÊN: LÃ ĐỘNG TÂN

Truyền kỳ về Bát Tiên có lẽ bắt đầu từ triều đại nhà Đường, và câu chuyện cũng thay đổi khác nhau qua với các triều đại. Tám vị tiên, theo ấn bản sau đời nhà Minh, là gồm có Chung Ly Quyền, Trương Quả Lão, Hàn Tương Tử, Lý Thiết Quải, Tào Quốc Cữu, Lã Động Tân, Lam Thái Hoà, và Hà Tiên Cô. Rất khác nhau về bề ngoài và cá tính, tám vị này là Đại Tiên trong Đạo gia, và họ thường tụ tập, họp mặt với nhau.
Tào Quốc Cữu là hoàng tộc của một hoàng đế; Lý Thiết Quải có tật ở chân nên bước đi với một cây gậy; Hà Tiên Cô là một phụ nữ trẻ đẹp; Trương Quả Lão trông rất khỏe mạnh ở tuổi già của mình và thường cưỡi ngược trên lưng lừa. Hàn Tương Tử là cháu trai của Hàn Dũ, một văn nhân nổi tiếng ở triều đại nhà Đường, thường thích thổi sáo; Chung Ly Quyền luôn luôn được nhìn thấy với một tay phe phẩy cái quạt lá.
Đọc thêm »

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ: TỐT HAY XẤU ĐỀU LÀ SỰ THẬT (!)

CÂU CHUYỆN LỊCH SỬ:
TỐT HAY XẤU ĐỀU LÀ SỰ THẬT (!)

Vào thời đại Bắc-Tề Đông-Ngụy, Thôi-La được phong làm Tả-Thừa-tướng, rất được Hoàng-đế Thế-Tôn coi trọng và ưu đãi.
Đọc thêm »

MẠN ĐÀM VỀ GIÁO DỤC THỜI CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC

MẠN ĐÀM VỀ GIÁO DỤC THỜI CỔ ĐẠI TRUNG QUỐC
Giáo dục thời cổ đại của Trung quốc, thật ra chủ yếu là giáo dục của Nho gia. Khổng tử chu du các nơi để dạy học, có tất cả 3000 môn đồ, là người tiên phong và sáng lập ra nền giáo dục Nho gia, và ổn định được cơ sở về Nho học. Đổng-Trung-Dư nói: “Trong tất cả trăm nhà, thì Nho thuật là độc tôn” điều này đã thừa nhận địa vị tôn sùng chánh thống của Nho học; Từ sau triều đại Tuỳ, Đường, đã mở khoa thi để chọn nhân tài, việc này đã xúc tiến sự phát triển rất lớn cho nền giáo dục Nho gia, từ đó về sau đạt được cực thịnh, ngàn năm cũng không suy yếu.
Mục đích của giáo dục Nho gia là phải học tập và thấm nhuần về tư tưởng của Nho học. Tư tưởng Nho gia của xã hội nhân loại là là một thể hệ tư tưởng rất lớn và hoàn thiện, bao gồm hết mọi mặt về lãnh vực tinh thần của xã hội nhân loại, gồm những lý lẽ về “tu thân, tề gia, trị quốc và bình thiên hạ”, cũng bao gồm những triết lý sâu sắc về hàm dưỡng đạo đức, rèn luyện về tiết tháo và tâm tình, kính trọng trời đất, tri thiên đạt mạng, an thân lập mạng vân vân, thể hiện đầy đủ về nhân sinh quan, vũ trụ quan và giá trị quan của người xưa.
Cụ thể mà nói thì tư tưởng của Nho gia bao gồm những mặt về “nhân, nghĩa, lễ, trí, tín”, xuống thêm một ít thì lại có những nội dung về “trung, hiếu, dũng, công, liêm, minh, chánh, trực, kiệm, cần”, càng xuống phía dưới thì càng phức tạp, lập nên tiêu chuẩn làm người của xã hội nhân loại, cũng như tiêu chuẩn về giá thị và đạo đức.
Đọc thêm »

ĐẠO ĐỨC ĐỨNG HÀNG ĐẦU KHI TIẾN CỬ HIỀN TÀI

ĐẠO ĐỨC ĐỨNG HÀNG ĐẦU
KHI TIẾN CỬ HIỀN TÀI

Đạo đức của con người chính là yếu tố căn bản nhất để làm người. Từ xưa đến nay, khi người ta tiến cử hiền tài, trước tiên, thường lấy đạo đức làm chuẩn mực để đo lường. Từ phẩm hạnh của họ mà có thể phán đoán họ là một người hiền đức hay không. Dĩ nhiên, phẩm chất thường ngày của người tiến cử hiền tài cũng đóng vai trò rất quan trọng. Ông ta phải là người có lòng khoan dung rộng lượng, không thiên vị, và không ích kỷ. Nếu một người ích kỷ và thiên vị đối với những người thân cận chung quanh, thì bất cứ những gì họ làm là để phát triển đảng phái của họ và làm tăng cường quyền lực của chính họ. Câu chuyện “Lý Khắc tiến cử Tể Tướng” được ghi chép trong sách “Tư Trị Thông Giám” là một ví dụ điển hình.

Ở thời Đông Chu, vua Ngụy Văn Hầu cho mời Lý Khắc, một viên quan làm việc ở bên ngoài triều đình, vào triều kiến, và phán rằng: “Trẫm cần một vị Tể Tướng để giúp trẫm. Giữa Ngụy Thành Tử và Địch Hoàng Trung, Trẫm muốn chọn lấy một người, vậy tiên sinh nhìn thấy ai là người thích hợp nhất cho chức vụ này?”
Đọc thêm »

Thứ Sáu, 16 tháng 9, 2011

ĐẠO (ĐẠO ĐỨC KINH)

ĐẠO (Đạo đức Kinh)
------******------
Hình tham khảo từ Internet
Có một vật hỗn độn mà thành trước cả trời đất. Nó yên lặng, vô hình, đứng một mình mà không thay đổi vĩnh cửu, vận hành khắp vũ trụ không ngừng, có thể coi nó nó là mẹ của vạn vật trong thiên hạ. Ta không biết tên nó là gì, tạm đặt tên cho nó là đạo.
         Đạo trời không tranh mà khéo thắng, không nói mà khéo đáp, không gọi mà vạn vật tự tới, bình thản vô tâm mà khéo mưu tính mọi việc. Lưới trời lồng lộng, thưa mà khó lọt. Lời nói chân thật thì không hoa mỹ, lời nói hoa mĩ thì không chân thật. Người thiện thì không cần phải biện giải [vì hành vi tốt rồi], người nào phải biện giải cho mình là người "không thiện". Người biết thì không nói, người nói là người không biết.
Đọc thêm »