This is default featured slide 1 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 2 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 3 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 4 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

This is default featured slide 5 title

Go to Blogger edit html and find these sentences.Now replace these sentences with your own descriptions.

Hiển thị các bài đăng có nhãn Thể loại khác. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Thể loại khác. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 20 tháng 9, 2013

Giải thích thành ngữ: Ăn ốc nói mò

GIẢI THÍCH THÀNH NGỮ: ĂN ỐC NÓI MÒ

Mới nghe qua dường như có thể giải thích thành ngữ ăn ốc nói mò nhờ vào quan hệ nhân quả: “Ăn ốc thì nói mò” hay “Vì ăn ốc nên nói mò”, tương tự như khi hiểu các tổ hợp từ ăn ốc lạnh bụng, uống rượu nhức đầu, hút thuốc khản giọng… Song, cái ý nói mò (tức nói đoán chừng, hú họa, không chắc trúng, vì không có đủ căn cứ để nói) của ăn ốc nói mò lại chẳng có mối liên hệ nào với việc ăn ốc cả. Nói cách khác, ở đây giữa ăn ốc  nói mò không có quan hệ nhân quả. Vậy thì, ăn ốc  nói mò kết hợp với nhau theo quan hệ gì? Và thành ngữ ăn ốc nói mò đã xuất hiện như thế nào? 

Có người cho ăn ốc nói mò có xuất xứ ở việc uống rượu ăn ốc ở các quán đầu làng. Rượu vào lời ra. Người quá chén thường nói năng lung tung, hết chuyện này sang chuyện khác, đúng, sai, hay, dở, tục, thanh, không để ý tới. Cách giải thích này xem ra có một ít lý lẽ, song chưa thể yên tâm được. Nói mò trong ăn ốc nói mò không phải nói lung tung, chuyện này sang chuyện nọ như người say rượu mà là nói hú họa, đoán chừng về một điều cụ thể, vốn xác thực nhưng không biết hoặc chưa biết chắc chỗ đúng của điều cần nói là đâu.

Cũng có người nghĩ tới quan hệ điều kiện - giả định giữa việc ăn ốc và việc mò ốc: “muốn ăn ốc phải mò ốc” để cắt nghĩa xuất xứ của ăn ốc nói mò. Nhưng tại sao ý “muốn ăn ốc phải mò ốc” lại liên hệ được với ý “nói mò, nói hú họa, nói không có chứng cứ” của ăn ốc nói mò đã nêu trên?

Chúng ta thử tìm hiểu nguyên nhân của thành ngữ này theo một hướng khác. Như đã biết, trong tiếng Việt có một từ  là động từ (mò ốc, mò cua…) và một từ  là trạng từ (nói mò, đoán mò...).  trong ăn ốc nói mò chính là từ mò trạng từ, chỉ cách thức hành động. Như vậy, giả định có quan hệ điều kiện giữa ăn ốc  mò ốc nêu trên là không có lý. Điều cần làm rõ ở đây là (nói)  đã đi vào ăn ốc nói mò bằng con đường nào?

Trong lời ăn tiếng nói của dân gian, bên cạnh ăn ốc nói mò chúng ta còn gặp các cách nói ăn măng nói mọc, ăn cò nói bay. Ăn măng nói mọc dùng chỉ sự bịa đặt, dựng chuyện, vu khống; ăn cò nói bay nói về thói chối bay, chối phắt, coi như không có, không biết điều đó có xảy ra thật. Ở hai cách nói này, gánh nặng ý rơi vào các vế sau, (nói mọc, nói bay), giống như cách nói ăn ốc nói mò. Và, vế đầu (ăn măng, ăn cò) dường như chỉ giữ chức năng cấu tạo hình thái chứ không mang chức năng biểu ý. Đây là một loại các trúc độc đáo rất hiếm thấy trong thành ngữ tiếng Việt. Có thể hình dung cơ chế tạo lập kiểu cấu trúc như sau:

1. Có một “từ” A biểu thị một hiện thực, ví dụ “mọc” trong thành ngữ ăn cò nói bay… ăn măng nói mọc biểu thị tính hay vu khống, dựng chuyện ở một loại người nào đó.   

2. Do nhu cầu diễn đạt có tính hình ảnh, gây ấn tượng mạnh mẽ hơn, người ta đã tạo ra lối nói mới dựa trên khuôn mẫu của cách nói đã có trước trong ngôn ngữ. Cách nói mới này được xây dựng theo nguyên tắc :

- Tìm trong ngôn ngữ một từ (B) có quan hệ logic với A, sao cho được một quan niệm khi kết hợp với A (theo trật tự AB hoặc BA) hợp với logic nhận thức người bản ngữ. Ví dụ: nếu A là mọc thì B phải là măng (hay trăng, răng...), vì nói măng mọc (hay trăng mọc, răng mọc…) đều có thể quan niệm được. Còn nếu A là bay thì B phải là cò (chim, cờ, lá…bay ) vì nói chim bay (cờ bay, lá bay)… đều hợp logic.

- Tùy vào đặc tính phạm trù của điều được nói đến và của hiện thực do B biểu đạt, tìm một hình thức (từ hoặc tổ hợp từ) có khả năng tương kết với AB (BA) theo luật này hay khác (chẳng hạn, đối với điệp) để tạo thành khuôn của cách nói mới. Chẳng hạn, điều được nói tới trong ăn măng nói mọc (ăn ốc nói mò, ăn cò nói bay,…) có thể quy vào phạm trù ứng xử nói năng, do đó, các từ được chọn làm các yếu tố cấu trúc có thể là ăn nói, lời lẽ, nói năng…

Vì B là từ chỉ sự vật thuộc phạm trù cái ăn được, nên người nói đã chọn từ ăn nói trong số các từ trên tương kết với măng mọc. Cuối cùng, dùng luật đối và điệp, vốn là biện pháp được dùng rất phổ biến trong thành ngữ, tục ngữ tiếng Việt với tư cách là chất gắn kết các yếu tố A, B để tạo thành khuôn mới. Cụ thể ăn măng nói mọcđược phân tích ra như sau: Ăn nói tương kết với măng mọc nhờ luật đối và điệp tạo thành ăn măng nói mọc giống như dân gian đã dùng các từ ong bướm  lả lơi để tạo ra thành ngữ bướm lả ong lơi hoặc dùng các từ đi mây về gió. Ăn cò nói bay và ăn ốc nói mò đều được tạo thành theo con đường nói trên.
                                                                                                          (Nguồn: Tham khảo)

Thứ Ba, 4 tháng 6, 2013

Em hãy còn thơ

EM HÃY CÒN THƠ
(Lưu Trọng Lư)

Thuở ấy, tôi còn học ở trường Quốc học Huế. Năm tôi trọ ở nhà bà Vĩnh thì tôi vừa lên năm thứ ba ban Thành chung. Bà Vĩnh không phải là một người “nấu cơm” cho học trò. Bà là vợ hầu một ông Phủ đã về hưu. Ông Phủ thường ở nhà quê, gần dưới Truồi. Một năm ông chỉ lên Huế một lần vào độ sau ngày đông chí, đến hết mùa đông thì ông lại trở về Truồi với bà vợ cả. Năm nào cũng chừng mực như thế, kể ông còn đứng đắn hơn thời tiết nữa. Nhưng ông ấy không dính dáng gì đến chuyện tôi kể đây. Mà cả bà ấy cũng vậy. Chỉ có người con gái yêu quý, nhưng…

Ta hãy trở về khoảng chín, mười năm về trước, khi người viết truyện này còn là một cậu học trò. Bấy giờ tôi mới mười bảy tuổi, tôi không đẹp, không bảnh nhưng mà béo tốt hơn bây giờ nhiều. Hồi đó tôi còn là một kẻ thích thể thao và thích nhất là bơi lội. Có một bận tôi đã bơi qua sông Hương và suýt nữa khắp kinh thành sắp nói đến tôi, nếu tôi đã chết đuối. Ngực tôi rất nở, và tôi lấy thế làm kiêu hãnh vô cùng. Tôi thường chỉ vào đấy và nói với nhiều bạn tôi: “Chỉ có tôi mới là đáng sống và thế giới sẽ thuộc về những người có những bộ ngực như tôi”. Ý tôi còn muốn nói: “Trong ấy có cả những người đàn bà, cũng thuộc về tôi nữa”. Nhưng than ôi! Tôi đã lầm một cách cay độc. Thuở ấy, chưa có phong trào thể thao phụ nữ, các bà các cô chưa quý những bộ ngực nở. Và cái khiếu thẩm mỹ của họ, lúc bấy giờ, cũng chưa được trau dồi, mở mang: họ chỉ thích những cái gì yếu ớt, lả lướt, thướt tha. Nở nang, hùng hồn, như cái ngực của tôi, họ không cho là đẹp. Tôi cũng không trách họ, ngay bọn đàn ông lúc bấy giờ cũng không hơn gì họ, cũng vẫn chưa biết quý trọng những cái vẻ khỏe, những đôi vú nở. Âu là thiên hạ lúc bấy giờ đều chậm trễ cả, duy có tôi là tiến mà thôi, duy có tôi là có óc thẩm mỹ khác người mà thôi. Nhưng chuyện tôi kể đây không phải là chuyện một bộ ngực, mà là chuyện cái vật thiêng liêng, quý hóa, giấu ở trong bộ ngực ấy. Chuyện một tấm lòng. Một tấm lòng muốn yêu, tha thiết yêu, khao khát yêu. Vâng, tôi đã yêu từ khi tôi mới bắt đầu cái năm thứ mười bẩy. Yêu, điều ấy không sao! Nhưng khốn nỗi tôi đã yêu một cách thẳng thắn, trực triệt quá, yêu với một “tinh thần thể thao”. Ở đây, các bạn đã bắt đầu thấy sự liên lạc cái ngực nở của tôi, với câu chuyện tâm tình mà tôi sắp kể.
Đọc thêm »

Chủ Nhật, 2 tháng 6, 2013

Cái xứ dở dang

Cái xứ dở dang
(Phan Khôi)

Ta thường thấy đại phàm cái chí mà không thành cái chí, hữu danh vô thiệt, tuy có nhưng có một cách lỡ dở, lứa mứa(*) chớ không phải có một cách chắc chắn, hoàn toàn, thì người ta đều cho nó là "dở dang".

Nhớ trong Truyện Kiều cũng có câu : "Dở dang nào có hay gì !".

 Toàn quyền Đông Dương Rodier
Giải sơ cái nghĩa hai chữ "dở dang" như thế rồi ngồi mà nghĩ đến hiện tình của xứ ta, thì té ra trăm cái, cái chi cũng là "dở dang" hết thảy.

Này xem từ trên chí dưới.

Trước hết là quan thống đốc. Tuy có một quan thống đốc mà quan thống đốc ấy sắp phải đ... đứng dậy nay mai. Cách vài bữa rày, ngài đã đánh điện tín về tây xin chánh phủ lựa một người để tạm chức. Còn quan thống đốc mới của ta thì xưa rày tuy đã nghe tên, nhưng bây giờ còn đương nằm bộng đâu bên "mẫu quốc" kia, ta chưa thấy mặt !
Đọc thêm »

Thứ Ba, 23 tháng 4, 2013

Hướng mở cho nghiên cứu thể loại

Hướng mở cho nghiên cứu thể loại

Ralph Cohen(*)

Nghiên cứu thể loại lớn hơn một kiểu tiếp cận tới văn chương, hay tới thể chế xã hội hay thực tiễn khoa học; nó phân tích quá trình thu nhặt, tích lũy tri thức của chúng ta, bao gồm những thay đổi mà tri thức đó trải qua. Bản thân nghiên cứu thể loại đã trải qua những thay đổi từ quan điểm của Plato và Aristotle về thơ ca và bi kịch đến thể loại với tư cách là những phân loại chủ yếu cho các thể loại diễn ngôn của cuộc sống hàng ngày. Chính thuật ngữ “thể loại” là một ví dụ về sự biến hình từ “loài” trước đó. “Loài” đã gắn với “họ” và là một quá trình phân biệt hành vi nhóm bằng việc gán sự lệ thuộc của nó cho dòng họ hoặc tộc loại. “Loài” trải qua những thay đổi hình thái thành “Thể loại” vào cuối thế kỷ XVIII đầu thế kỷ XIX, một thuật ngữ hậu tiến hóa có lẽ bắt nguồn từ “gens” (người – trong tiếng Pháp), và thay đổi từ một khái niệm tinh lọc hơn sang một khái niệm ít xác định hơn…

Đã nhiều năm trôi qua kể từ khi M. Bakhtin và tiếp đó là Tzevan Todorov thay đổi hướng nghiên cứu thể loại từ nghiên cứu phân loại sang nghiên cứu chức năng của nó trong diễn ngôn và hành vi con người. Và mặc dù đã có nhiều ứng dụng trong nghiên cứu tiểu thuyết và tác phẩm phi văn chương, song vẫn có một vài nỗ lực hình dung nghiên cứu thể loại như một lý thuyết hành vi hoặc như một lý thuyết có thể cung cấp một cái nhìn hướng vào bên trong nghệ thuật và khoa học(3).
Đọc thêm »

Thứ Bảy, 23 tháng 3, 2013

Yếu tố triết học (hay triết lý dân gian) trong tục ngữ Việt Nam

Tìm hiểu những yếu tố triết học (hay triết lý dân gian)
trong tục ngữ Việt Nam


Tục ngữ và triết học là hai lĩnh vực, hai hiện tượng ý thức xã hội khác nhau. Tục ngữ thuộc lĩnh vực nghệ thuật, là một thể loại văn học dân gian (folklore), còn triết học thuộc lĩnh vực khoa học, là khoa học về thế giới quan và phương pháp luận.



Tri thức của tục ngữ là tri thức dân gian, được rút ra trên cơ sở quan sát và miêu tả cái cụ thể, đó là những tri thức kinh nghiệm, những "lẽ phải thông thường". Còn triết học - triết học nào cũng đi xa hơn "lẽ phải thông thường là tri thức khoa học, là hệ thống những quan niệm, quan điểm về thế giới, là sự tổng hợp và khái quát ở mức độ chung nhất và cao nhất những quy luật vận động của tự nhiên, của xã hội, của con người, của tư duy. Tục ngữ là văn học dân gian nên tác giả của nó là tập thể, là quần chúng nhân dân, còn triết học là một môn khoa học nên tác già của một hệ thống hoặc một tác phẩm triết học bao giờ cũng là cá nhân - là những người hoạt động trí óc chuyên nghiệp, có khả năng tư duy lý luận và có năng lực khái quát cao. Xét về cội nguồn, về thời điểm ra đời tục ngữ cũng có trước triết học. Tục ngữ đã có từ trong xã hội nguyên thuỷ, nhưng trong xã hội nguyên thủy thì chưa thể có triết học, nhiều lắm là chỉ có những mầm mống của tư tưởng triết học, hay là tư duy tiền triết học phải đến thời đại văn minh, tức là khi xã hội đã phân chia giai cấp thì triết học thực sự mới có điều kiện ra đời, nghĩa là trình độ tư duy trừu tượng và các tri thức khoa học của con người đã phát triển đến mức đòi hỏi và có khả năng khái quát các tư tưởng triết học.

Đọc thêm »

Thứ Ba, 5 tháng 3, 2013

Quan niệm về hạnh phúc dưới dạng lý tưởng của nó trong tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam

QUAN NIỆM VỀ HẠNH PHÚC DƯỚI DẠNG LÝ TƯỞNG CỦA NÓ TRONG TỤC NGỮ, THƠ CA DÂN GIAN VIỆT NAM
LÊ HUY THỰC (*)

rong bài viết này, tác giả đã góp phần luận giải bản chất và dạng lý tưởng của hạnh phúc - một phạm trù, một vấn đề trung tâm của đạo đức học - theo quan niệm của người lao động qua tục ngữ, thơ ca dân gian Việt Nam. Hạnh phúc đó không phải là cái gì cao xa, trừu tượng; trái lại, rất giản dị, gần gũi và thiêng liêng: được chăm sóc cha mẹ, anh em gắn bó, đoàn kết, yêu thương nhau; vợ chồng chung thủy, con cái đầy đủ, cuộc sống yên bình, ấm cúng, nhiều tình thương...

Hạnh phúc là một phạm trù, một vấn đề trung tâm của đạo đức học. Không ít tác giả bình dân Việt Nam đã bàn luận, cắt nghĩa và mô tả dạng lý tưởng của hạnh phúc theo quan niệm của quần chúng lao động. Nhiều tác phẩm tục ngữ, ca dao, dân ca của chúng ta chứa đựng những triết lý làm nên một quan niệm tuy mộc mạc, bình dân nhưng cũng khá phong phú, sâu sắc và có ấn tượng khó quên trong trí óc độc giả về hạnh phúc.

Trong tục ngữ, ca dao, dân ca Việt Nam, hạnh phúc được quan niệm không phải là cái gì đó cao xa, mà rất gần gũi, ở ngay những người ruột thịt cùng dòng máu. "Có cha có mẹ thì hơn / Không cha không mẹ như đờn đứt dây"(1). Câu ca dao này diễn tả một trong những quan niệm về hạnh phúc của nhân dân ta. Ở đấy, hạnh phúc chỉ là có (còn) cả cha và mẹ, được sống cùng cha mẹ. Người con, đồng thời là tác giả câu ca dao này không bộc lộ quan niệm hạnh phúc là sự hưởng lạc vật chất cao sang, mà chỉ là sự nương tựa vào cha mẹ, nhận từ cha mẹ sự chăm sóc nói chung. Câu triết luận đang bàn còn bao hàm ý nghĩa người con hiền thảo, kính yêu song thân của mình. Có thể nói, câu ca dao, triết luận trên có “ý tại ngôn ngoại”, tức là ngoài cái nghĩa đen như nói trên, nó còn thể hiện nhu cầu, mong muốn của người con được chăm sóc, đền đáp phụ mẫu. Vậy là, hạnh phúc mà chúng ta đang xét bao hàm cả hai nhu cầu được nhận, cậy trông từ nơi cha mẹ và được chăm sóc, đáp đền người sinh ra mình.
Đọc thêm »

Chủ Nhật, 20 tháng 1, 2013

Vai trò của cái gu(*) trong nghệ thuật

Vai trò của cái gu(*) trong nghệ thuật

Hình chỉ mang tính minh họa
Trong nghệ thuật, đặc biệt là trong hội hoạ, có hai khâu hoạt động tưởng như xa lạ với nhau, thậm chí khác nhau trên nhiều khía cạnh, đó là khâu sáng tác và khâu thưởng thức.
Sáng tác là lãnh vực hoạt động của các hoạ sĩ, chuyên nghiệp hay không chuyên nghiệp, những người vẽ tranh với mục đích sáng tạo ra một tác phẩm nghệ thuật.
Còn thưởng thức là lãnh vực của các nhà nghiên cứu, phê bình nghệ thuật, và quần chúng yêu thích nghệ thuật, nói chung. Chức năng của nó là cảm thụ, là thẩm định tác phẩm nghệ thuật.
Khâu thưởng thức trong nghệ thuật, thoạt nhìn tưởng như chỉ có tính chất thụ động , bởi vì vai trò của người thưởng thức chỉ là cảm thụ, phán xét tác phẩm của người khác, mặc dầu muốn làm việc đó cũng phải có khá nhiều hiểu biết về nghệ thuật,  lại còn phải nhạy cảm với cái hay, cái đẹp, nắm bắt được một cách tinh tế những ý tưởng của tác giả.
Ngược lại, khâu sáng tác, tuy cũng có phần tự phán xét, tự kiểm tra, song công việc chính vẫn luôn luôn là phải vận dụng trí tưởng tượng để tìm ra cái đẹp, cái mới. Ngoài ra, người sáng tạo ra tác phẩm nghệ thuật còn cần có những hiểu biết cụ thể về mặt kỹ thuật thực hiện, và nhất là cần có tay nghề.
Đọc thêm »

Thứ Năm, 10 tháng 1, 2013

Lòng yêu nước và khát vọng hoà bình

(Chu Lai)
Nhấn thanks để ủng hộ Blog
(baodautu.vn) Cho đến bây giờ, sau hơn 35 năm im tiếng súng, tôi vẫn chưa hiểu tại sao sức chịu đựng của con người Việt Nam lại có thể bền dai phi thường đến thế.
Thành cổ Quảng Trị - Nơi từng diễn ra những trận chiến ác liệt
Ba mươi năm chiến tranh ái quốc là ba mươi năm mất mát đến kinh hoàng, là ba mươi năm vượt ra ngoài khuôn khổ sức chịu đựng của con người, là ba mươi năm mà nếu không có lòng yêu nước, ý chí tự cường, lòng tự trọng của dân tộc, thì chúng ta sẽ không bao giờ bước qua được những dấu mốc lịch sử khốc liệt như vậy.
Đọc thêm »

Thứ Tư, 19 tháng 12, 2012

Địa đàng ở phương Đông (Phần 2)


Địa đàng ở phương Đông (Phần 2)

(Stephen Oppenheimer)


"Vườn Địa Đàng" bởi Lucas Cranach der Ältere.
Nếu ta chấp nhận bằng chứng theo thống kê về mối quan hệ xuyên lục địa trong các thần thoại thì niên đại của những văn bản thần thoại Á-Âu đầu tiên trở nên rất quan trọng. Chúng ta rất may mắn bởi người Sumer và người Babylon rất mực cần mẫn trong việc ghi chép các motive này vào các bảng đất sét và con dấu hình trụ. Dấu niên đại bắt nguồn từ một nhu cầu như thế cho thấy rằng thần thoại, với những hàm nghĩa tôn giáo của nó, thuộc về những văn bản ghi chép đầu tiên vào khoảng thiên niên kỷ thứ 3 trước công nguyên. Bởi vì trong đa số trường hợp, kết cấu và nội dung của thần thoại Lưỡng Hà cho thấy rằng chúng bắt nguồn từ những dị bản phương Đông cổ hơn, nên chúng ta có thể giả định rằng hướng truyền bá là từ Đông sang Tây, và niên đại của sự truyền bá này có lẽ còn sớm hơn cả đầu thiên niên kỷ thứ 3 trước công nguyên. Nghĩa là những mối liên kết văn hóa Đông Tây có thể lâu hơn 5.000 năm. Những mối liên kết văn hóa đó chỉ có thể xảy ra nếu như cư dân ở vùng Đông Nam Á lưu giữ các câu chuyện, và nếu họ có khả năng đi đến Lưỡng Hà và Ấn Độ để truyền bá những câu chuyện đó.
Đọc thêm »

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Địa đàng ở phương Đông (Phần 1)


Địa đàng ở phương Đông (Phần 1)

(Stephen Oppenheimer)


"Vườn Địa Đàng" bởi Lucas Cranach der Ältere.
“Ồ, thì phương Đông là phương Đông, còn phương Tây là phương Tây và sẽ chẳng bao giờ chúng gặp nhau được. Họa chăng đến khi nào Đất và Trời đứng trước tòa phán xét tối cao của thượng đế…” Những lời này của văn hào Anh Rudyard Kipling (1865-1936) vang vọng đến thời đại của chúng ta từ thời kỳ thuộc địa. Các ngành khảo cổ học, di truyền học và ngôn ngữ học dường như dã chứng minh rằng Kipling đúng hơn chín mươi phần trăm: Đây là một đường ranh hiển nhiên, sâu thẳm và lâu đời phân cách miền Viễn đông với phần còn lại của đại lục Á - Âu. Câu chuyện của tôi tập trung vào năm đến mười phần trăm sự sự giao thoa này. Bằng cách sử dụng những chứng cớ từ ba ngành học này ở phần I, tôi đã đề xuất rằng có một mối liên kết giữa cư dân Đông Nam Á tiền sử với phần còn lại của thế giới. Sau thời kỳ Băng hà, cư dân Đông Nam Á bị buộc phải trốn chạy về phương Tây, Lưỡng Hà và có thể còn xa hơn nữa, và ảnh hưởng của họ đến phương Tây lớn hơn nhiều so với số dân của họ. Tôi cũng đã chứng minh ở phần II rằng bên cạnh những bằng chứng về quá trình di cư tự nhiên của cư dân Đông Nam Á, chúng ta còn có thể nhận ra những mối liên kết văn hóa ngược trở lại với lãnh thổ này trong nhiều câu chuyện cổ ở phương Tây và các câu chuyện khác nữa. Chỉ trong vòng 2.000 năm qua đã có một dòng chảy văn hóa ngược chiều - từ Tây sang Đông.
Tôi không đòi hỏi người ta chấp nhận mà không nghi vấn những dấu hiệu văn hóa dân gian hay di truyền và khảo cổ tôi đã mô tả trong cuốn sách này. Có quá ít bằng chứng về di truyền và khảo cổ được tìm thấy và cũng chẳng biết là niên đại của chúng đã chính xác hay chưa. Còn nhiều công việc cần được tiến hành. Điều mà tôi đề xuất là cư dân Đông Nam Á tiền sử xứng đáng được chúng ta xem xét một cách thấu đáo hơn, không phải bằng cái nhìn “thiển cận” (theo cách nói của nhà khảo cổ học Pamela Swadling) về những cư dân tiền sử của vùng này.
Lấp đầy những khoảng cách
Khảo cổ học, tuy có vẻ ngoài dường như chính xác, lại có một mắc mứu đặc biệt về những gián đoạn trong tính liên tục do sự dâng cao của mực nước biển gây nên, đặc biệt là cách đây 8.000 năm trong suốt thời kỳ Đồ đá mới. Những gián đoạn này đã đưa đến một bức tranh sai lệch về độ dài thời gian và những đường chân trời giả tạo. Những gián đoạn đáng kể nhất nằm vào giai đoạn Đồ đá mới ở Trung Quốc và Đông Nam Á; những gián đoạn ở Trung Quốc mãi sau này người ta mới nhìn nhận, còn những gián đoạn ở Đông Nam Á thì hầu như bị quên lãng.
Toàn bộ một kỷ nguyên trong tiền sử Đông Nam Á thế là đã bị đánh mất. Chẳng hạn, có một khái niệm mù mờ rằng một số dân cư thưa thớt của các bộ lạc săn bắn hái lượm đã xuất hiện ở nhiều nơi trên vùng đảo Đông Nam Á như ở Borneo cách đây từ 9.000 đến 3.500 năm, trong khi ở phương Đông, Tân Guinea (Indonesia), các bộ lạc còn đang hành nghề biển và làm vườn. Trái với cái nhìn nguyên thủy về khu vực ấy là bằng chứng về sự phát quang những khu rừng mênh mông ở vùng cao Sumer và Java cách đây 8.000 năm.
Tuy nhiên, như ta đã biết, nhà khảo cổ học Wilhelm Solheim có đề xuất một quan điểm thay thế rằng những cư dân đầu tiên của đảo Đông Nam Á vào thời gian này đã biết trồng củ, nuôi súc vật, thu hoạch cây trái và trở thành những chuyên gia trong nghề biển. Rất có thể họ đã nói thứ ngôn ngữ tiền thân của tiếng Austronesian nếu nguồn gốc Molluccan của motive chủng loại Polynesian được minh chứng là đúng. Họ có thể đã phát triển mạng lưới thương mại đường biển đến tận Nhật Bản và Hàn Quốc ở phía Bắc xa xôi cách đây 7.000 năm. Dấu vết của mạng lưới này vẫn còn rơi rớt lại đến ngày nay trong những tộc người du cư trên biển ở quần đảo Mã Lai. Họ hàng của họ - có lẽ nói các ngôn ngữ Austro-Asiatic (Úc-Á) - đã phân bố khắp đại lục Đông Nam Á và để lại những di chỉ của họ. Từ lâu đã có ý kiến cho rằng đây là những bộ lạc săn bắn hái lượm khá lạc hậu, nhưng thật ra, người Hoabinhians và Bacsonians đã phát triển kỹ thuật nông nghiệp như làm vườn, trồng lúa và làm đồ gốm.
Tôi đã dành rất nhiều chỗ trong phần I để tranh luận rằng những người Austronesia đầu tiên đã phân bố đến Thái Bình Dương khoảng hơn 6.000 năm trước. Việc này là có mục đích. Trong khi sự phân bố ở Thái Bình Dương không có liên quan trực tiếp đến sự truyền bá Đông - Tây thì vấn đề tính toán chính xác thời gian chính là nền tảng cho quan điểm quy ước về tiền sử Đông Nam Á. Nói bằng thuật ngữ đơn giản, lý thuyết hiện nay về “chuyến tàu tốc hành từ Trung Quốc đến quần đảo Polynesia” dựa vào một niên đại đến Thái Bình Dương muộn hơn, vào năm 1.500 trước Công nguyên. Nếu như con tàu này không chỉ chưa bao giờ đến gần Trung Quốc mà còn rời khỏi Đông Nam Á ngay sau trận hồng thủy cuối cùng thì ta hoàn toàn có lý do để cho rằng các nhà thám hiểm đã có khả năng đi thuyền về phía Tây cũng vào thời gian đó.
Cứ liệu khảo cổ học về những thành tựu tiền sử của phương Đông có nhiều khoảng trống hơn là sự kiện, ngoại trừ những mảnh sự kiện rời rạc gợi ý rằng chúng đã mất mát nhiều hơn người phương Tây tưởng. Một vài mảnh sự kiện sớm hơn - gồm cứ liệu về những thủy thủ ở Thái Bình Dương đã đến được đảo Solomon cách nay gần 30.000 năm, đồ sứ cổ của người Nhật có niên đại 12.500 trước, và những người miền núi Tân Guinea mà, như đã nói ở trên, đã biết tháo nước ở các đầm lầy để trồng khoai sọ cách nay 9.000 năm, và sự trồng lúa đã tồn tại từ xa xưa một cách đáng kinh ngạc ở quần đảo Mã Lai, điều này hẳn đã tiên báo sự lan truyền của nghề thủ công đến Ấn Độ. Sau đó ít lâu là trận hồng thủy thứ ba trong thiên niên kỷ thứ 8. Tiếp theo đó là một thời kỳ tương đối im ắng về cứ liệu khảo cổ, từ vùng Đông Nam Á ngập nước do nước biển dâng cao đến 500 mét trong 2.000 năm tiếp theo. Những ngoại lệ là một vài hang động sơ kỳ đồ đá mới có niên đại từ Borneo và quần đảo Philippin cùng với sự xuất hiện của khoáng chất obsidian trên duyên hải phía Đông của Borneo 6.000 năm trước, được trao đổi qua lại từ đảo Lou đến phương Đông cách hàng ngàn dặm biển, rất lâu trước khi những thủy thủ Austronesian đặt chân đến Borneo, chứ chưa nói gì đến đảo Lou.
Trên lục đại châu Á, từ cuối trận hồng thủy trở đi, chúng ta bắt đầu thấy những khu định cư thời kỳ Đồ đá “mới”, dọc theo vùng đảo phía Đông và Nam Trung Quốc và ở Việt Nam. Tuy nhiên những nhà khảo cổ Đông phương lão luyện đã quan sát kỹ lưỡng những lớp phù sa được tạo nên bởi lụt lội ở các vùng đầm lầy ven biển, và họ đã khám phá ra rằng những nền văn hóa của thời kỳ đồ đá đầu tiên đã có tại đó từ trước trận lụt. Khu định cư nông nghiệp ở Thái Lan và Việt Nam cũng xuất hiện từ thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên ở những nơi như Ban Chiang. Có lẽ những người đi khai hoang này đã từ bờ biển di cư vào trong đất liền khi trận lụt xẩy ra; dù sao đi nữa thì những vùng đất nông nghiệp Viễn Đông có niên đại từ thiên niên kỷ thứ 5 trước Công nguyên đã tiếp tục chế tạo đồ đồng vào khoảng thời gian đó như Trung Quốc và Cận Đông cổ đại - và hiển nhiên là độc lập với các nền văn minh này. Nền văn hóa thời kỳ kim loại của Việt Nam sau này đã chế tạo được những đồ vật tinh tế mang đi trao đổi khắp Đông Nam Á và cả vùng Melanesia xa xôi từ rất lâu trước khi có sự xuất hiện của nền văn hóa Đông Nam Á chịu ảnh hưởng của Ấn Độ. Nền văn hóa ngoại lai thời kỳ đồng thau 3.200 năm tuổi của Sanxingdui ở Trung Quốc còn có nhiều mối liên kết văn hóa với vùng đảo Đông Nam Á hơn là với phương Bắc.
Khi những mảnh rời của trò chơi ghép hình được xếp lại gần nhau nhiều hơn, một bức tranh trái ngược hiện ra trước mắt ta: những tiến bộ kỹ thuật lớn lao cuối kỷ Băng hà xuất hiện đồng thời trên khắp đại lục Âu-Á và lan đến tận Châu Đại Dương. Một giả thiết như thế xác nhận mối nghi vấn rằng những lộ trình cổ xưa của việc liên lạc liên lục địa ở phương Đông có thể có hiệu quả đáng kể hơn nhiều so với người ta nhìn nhận trước đây. Bức tranh di truyền học và ngôn ngữ học về những sự lan truyền của người Austronesian vào Melanesia và Australia xác nhận rằng sự lan truyền đầu tiên đã khởi phát từ Đông Nam Á vào một thời kỳ sớm hơn nhiều so với lập luận của những người ủng hộ thuyết “Chuyến tàu tốc hành năm 1500 trước Công nguyên đến Polynesia”.
Một tiến trình lũ lụt như thế diễn ra ở các vùng đầm lầy Sepik ở Bắc Tân Guinea cách nay hơn 6.000 năm; một lần nữa các nhà khảo cổ học địa phương đã đào bới bên dưới lớp phù sa và phát hiện ra những nền văn hóa với kỹ thuật vỏ sò đặc trưng Austronesia và những quả cau xuất hiện ở đó khoảng 6.000 năm trước chứ không phải là 3.500 năm như nhiều người tưởng. Thậm chí có lẽ chúng còn xuất hiện sớm hơn nhiều, nhưng tới nay thì các chứng cớ về điều đó đã bị chôn sâu dưới đáy biển. Điều này có thể giải thích cho việc đồ gốm Jomon 5.400 tuổi từ Nhật Bản đã tìm thấy tận phương Đông ở Melanesia. Dù nguyên nhân gì đi nữa thì cũng đã có một cuộc di cư và pha trộn cư dân to lớn quanh Vành đai Thái Bình Dương thuộc phương Tây trong và ngay sau trận hồng thủy. Hầu hết những chứng cứ về điều này lúc bấy giờ lại bị chìm ngập dưới mực nước biển cứ dần cao lên cho tới 5.500 năm trước.
Cách phương Tây hàng ngàn kilomét, nạn hồng thủy đã ảnh hưởng đến vịnh Ảrập như Sir Leonard Woolley đã tìm thấy cả trong văn bản lẫn trên thực tế, nhưng những người dân Lưỡng Hà của vùng Ubaidian do không có những khu rừng nhiệt đới dày đặt để ngăn lũ nên có thể đã di chuyển ngược lại hướng đi của lũ. Hậu quả là văn liệu của họ cho ta biết rằng họ đã ở lại vùng vịnh và cư xử như chủ nhà với các thương nhân và những người tị nạn lành nghề từ phương Đông sang. Như chúng ta đã thấy, tại ranh giới của nền văn hóa Ubaid 7.500 tuổi bị đọng dưới lớp bùn lũ lụt có những bộ sưu tập tương tự về đồ gốm và các đồ thủ công thời đồ đá mới, nối kết với nghề xe sợi và đánh cá, còn có cả những bức tượng nhỏ mang dáng vẻ phương Đông thần bí.
Đường mòn dẫn về phương Tây
Khó mà quan niệm rằng những thủy thủ và thương nhân đã dễ dàng đến Tây Nam Thái Bình Dương cách đây rất lâu mà không mạo hiểm đi về phương Tây dọc theo vành đai duyên hải phương Bắc an toàn của Ấn Độ Dương. Thì họ đã làm thế mà. Xét chứng cớ về sự di chuyển của các dân tộc về phía Tây, chúng ta thấy sự có mặt tự nhiên của dân tộc Mundaic ở Trung Ấn ở chính các vùng nơi việc trồng lúa đã xuất hiện đầu tiên, có thể là cách đây 7.000 năm. Họ có chung bộ gene và nhóm ngôn ngữ với người Môn-Khơme ở bán đảo Trung Ấn, những bộ tộc sống tách rời nhau hàng ngàn kilômet và hàng ngàn năm này đã chia xẻ với nhau những hiểu biết về văn hóa trồng lúa và nghề đồ đồng. Đây là một chứng cớ thuyết phục cho thấy họ đã mang theo một nền văn hóa có từ trước về phía Tây. Các nhà ngôn ngữ học đồng ý rằng sự phân hóa giữa các nhánh thuộc chủng tộc ngôn ngữ Austro-Asiatic đã xẩy ra từ xa xưa trong thời tiền sử.
Chúng ta còn tìm thấy những mối liên kết di truyền học và ngôn ngữ học giữa những người Austronesia làm thương mại và đi biển với những dân tộc Nam Ấn nào đó. Mặc dù các mối liên kết ngôn ngữ ít rõ ràng hơn ở phía Bắc nhưng những dấu hiệu di truyền học cổ đại rõ ràng là dẫn ta quay lại với vùng Đông Nam Á hải đảo. Có thể những vị du khách đầu tiên đến đây từ phương Đông cũng chính là những người “Naga” huyền thoại, họ đã mang nhiều gia vị và tục thờ thần rắn đến khu vực này. Có chứng cớ về việc du nhập ngôn ngữ Austronesia đến Ấn Độ: nhưng trong khi mối liên kết giữa tiếng nói của người Sume với tiếng nói của người Austronesian đã được đề xuất thì vấn đề này vẫn còn gây tranh cãi. Tuy nhiên, những liên kết di truyền học từ Đông Nam Á dọc theo các lộ trình thương mại xuyên qua Ấn Độ đến các Tiểu vương quốc Ảrập thống nhất và Lưỡng Hà và đến Địa Trung Hải đã để lộ một con đường rõ rệt của những đoàn người di trú nhỏ và có định hướng vào thời cổ đại.
Các vấn đề về niên đại của sự di trú
Trong khi con đường di truyền học và ngôn ngữ học từ Đông Nam Á đến phương Tây đã được xác định chắc chắn thì vấn đề chính đối với cả hai loại dấu chỉ này chính là niên đại các cuộc di cư của họ. Các nhà di truyền học và ngôn ngữ học lịch sử đều có thể ước đoán về niên đại của các nhánh hay các mắt xích trong cây gia phả của các đoàn người di trú. Nhưng họ không dễ gì khẳng định được các nhánh đó đã xuất hiện ở đâu và vào khi nào. Nói đơn giản hơn, bất kỳ một nhánh nào đó trong một gia hệ đều có thể xẩy ra trước hay sau cuộc di cư của gia hệ đó; không dễ gì nói chắc là trước hay sau. Đối với di truyền học về những cuộc di dân, cái khó của việc xác định niên đại là phải đưa ra cho được những ranh giới thời gian hàng ngàn năm.
Tuy nhiên, có một trường hợp đặc biệt, ấy là khi các thành viên mới trong một gia hệ được tìm thấy đúng vào hoặc sau một thời điểm của lộ trình di cư chứ không phải là trước đó. Điều này giúp xác định được niên đại của những cuộc di cư đầu tiên là cách đây bao lâu. Hiện tượng này lặp lại trong cái gọi là motive Polynesia. Nó chứng tỏ rằng, thay vì xác định những cuộc di chuyển gần đây của người Polynesia ra khỏi Trung Quốc, motive này xác định có một cuộc lan truyền sớm hơn nhiều của người Austronesian vào Tây Nam Thái Bình Dương hơn 6.000 năm trước. Motive Polynesia thay vì xác định những cuộc di cư hiện thời từ Trung Quốc, lại đặt tổ tiên của người Polynesia và những người dân đảo Thái Bình Dương khác vào mép thềm lục địa Sunda bị chìm mất vào cuối kỷ Băng hà. Những luận cứ như thế còn tiếp tục trong các dấu hiệu di truyền học mẫu hệ từ Đông Nam Á được tìm thấy ở Nam Ấn. Những điều này chứng tỏ sự đa dạng của địa phương, từ đó cho thấy sự có mặt lâu đời của những người dân di cư ở vùng Đông Nam Á. Một số những dấu hiệu di truyền độc đáo khác của kiểu gien toàn cầu đã chỉ ra dòng chảy từ Đông sang Tây, xuyên qua Ấn Độ vào Lưỡng Hà.
Những kiểu dấu hiệu như thế đã tiết lộ một dòng di truyền gien chảy trực tiếp từ phương Nam đến Australia kể từ cuối kỷ Băng hà. Những dấu hiệu này còn hướng về phương Băùc vào điểm hội tụ di truyền của những vùng đồi phía Đông Himalaya. Những điều này ủng hộ ý kiến cho rằng dân tộc đa ngôn ngữ này là những người lánh nạn từ phía nam lên thượng nguồn hơn là tổ tiên của người Tây Tạng. Do đó, bối cảnh di truyền là một sự phân tán gien từ xa xưa, khởi đi từ vùng Đông Nam Á khi mực nước biển dâng cao.
Vài câu chuyện có thể xác định niên đại
Việc đã từng có sự trao đổi qua lại giữa phương Đông và phương Tây về ý tưởng, gien, ngôn ngữ, đồ vật và tập quán văn hóa không còn là nghi vấn nữa. Vấn đề còn lại đối với tất cả những dấu chỉ này là niên đại chính xác của sự khuếch tán đầu tiên. Đáng ngạc nhiên là hệ thống dấu chỉ vốn đã tạo ra mối liên kết mạnh mẽ nhất từ Đông sang Tây cũng chính là hệ thống có niên đại chính xác và sớm nhất. Dĩ nhiên, hệ thống dấu chỉ này là tín ngưỡng và văn hóa dân gian truyền thống của chúng ta và là đề tài chủ yếu của nửa cuốn sách này.
Có hai phương diện cần phải phân biệt rõ trong cách dùng thuật ngữ văn hóa dân gian của tôi: dùng nó như một dấu chỉ văn hóa, và vai trò của nó như là lịch sử. Điều quan trọng nhất đối với tôi ở đây là dấu chỉ văn hóa. Nếu đặt sang một bên tất cả những câu hỏi về việc tại sao văn hoá dân gian được tạo ra, thì ta lại đối mặt với vấn đề những sự tương đồng không thể chối cãi của những truyền thống rất xa cách nhau về địa lý và chủng tộc. Do không thừa nhận sự khuếch tán là lý do cho những mối liên kết này, các nhà văn hoá dân gian của thế kỷ 20 đã phải đề xuất ra hai nguyên nhân duy nhất khác khả dĩ cho sự tương đồng đó, ấy là sự ngẫu nhiên và những hoạt động bên trong tâm trí con người. Tuy rằng sự ngẫu nhiên có thể vận hành theo các môtíp rõ ràng, đơn lẻ, chẳng hạn như tục thờ phụng Mặt Trời, tôi đã trình bày rằng, về mặt thống kê, rất khó có khả năng chuyện các kiểu truyện phức hợp - có từ 3 đến 10 motive riêng biệt - xảy ra tới hơn một lần. Thế mà đây là chính điều hẳn đã xảy ra đối với sự phân bố các huyền thoại trên một đường chéo vạch ngang qua đại lục Âu Á - với người Polynesia ở đầu này và người Phần lan ở đầu kia -, tất cả đã xảy ra độc lập với nhau. Việc các thần thoại cốt lõi đã được bảo tồn cẩn trọng bởi các nền văn minh Lưỡng Hà, Trung Đông và Ai Cập cũng có thể không phải là trùng hợp ngẫu nhiên. Tất cả những câu chuyện chính trong 10 chương đầu của sách Sáng thế ký được tìm thấy trong dải văn hóa này và tất cả xuất hiện ở miền Viễn Đông: Sự sáng tạo ra nước, sự phân chia trời đất, sự sáng tạo ra người đàn ông từ đất đỏ, Eva từ xương sườn của anh ta, Cain và Abel, và dĩ nhiên còn có nạn hồng thủy. Ngoại trừ hồng thủy thì sự tương đối hiếm hoi bằng chứng cho những kiểu truyện phức hợp này ở châu Mỹ và châu Phi không chỉ hỗ trợ cho lý thuyết về sự phân bố, mà còn là một luận điểm chống lại giả thiết về tính ngẫu nhiên và “hoạt động bên trong tâm trí con người” đối với những sự tương đồng giữa các huyền thoại này.
Trong khi phương pháp của Frazer trong văn hóa dân gian đang bị loại bỏ thì cách tiếp cận tâm lý học giải thích những điểm tương đồng của các câu chuyện như thế bằng những ý tưởng của Freud và Jung, đã trở nên phổ biến và đáng kể. Thời gian đã không chứng minh được triển vọng đối với những ý kiến sau. Những lý thuyết ấy thực chất là không thể chứng minh, vô bổ hoặc không thích hợp và không còn được xem xét một cách nghiêm túc trong văn bản này. Xin dẫn ra một thí dụ: câu chuyện về sự phân chia Trời Đất được đề cập ở gần đầu phần II thường xuyên nhắc tới sự hợp nhất giới tính cha Trời và mẹ Đất. Điều này có thể là nguồn cảm hứng cho cách diễn giải theo Freud, nhưng sự kiện hay hình ảnh tính dục đầy kịch tính này lại khác nhau rất nhiều ở mỗi câu chuyện. Điều này chỉ ra rằng mặc dù môtíp phân ly đã được lưu giữ cẩn thận trong những dị bản khác nhau của câu chuyện, song chúng không xảy ra một cách tự phát như là sự đáp ứng một nhu cầu sâu thẳm muốn hoạn cha mình hay bất kỳ sự tưởng tượng nào như thế. Sự tiếp cận cấu trúc luận đối với văn hóa dân gian đang nổi lên ở nửa sau thế kỷ 20 đã hoàn toàn vô dụng và trong bất cứ trường hợp nào cũng lờ đi những vấn đề về nguồn gốc của thần thoại.
Hết Phần 1.

Mời bạn bấm vào đây để xem tiếp


Thứ Ba, 11 tháng 12, 2012

Đã đến lúc cần một cách nhìn toàn diện, tôn trọng sự thật


Đã đến lúc cần một cách nhìn toàn diện, tôn trọng sự thật

(Nguyễn Khắc Phê)

Lâu nay bàn về đề tài chiến tranh, chúng ta thường đòi hỏi dựng cho được hình tượng người anh hùng. Điều đó là đúng vì nhân vật anh hùng hướng người đọc tới cái cao cả, một phẩm chất rất cần thiết cho cuộc sống, nhất là khi con người phải đối đầu với thử thách khắc nghiệt trong chiến tranh. Mấy chục năm qua, văn học nghệ thuật đã tạo ra được nhiều điển hình về người anh hùng nhưng vẫn còn “mắc nợ” với nhân dân vì nếu nhìn thẳng vào sự thật thì hình tượng người anh hùng chưa có sức lay động mãnh liệt, chưa có sức sống lâu bền trong tâm hồn công chúng. Lý giải điều này hẳn là có nhiều nguyên nhân mà trước hết phải nói đến là tài năng, nội lực của người viết còn yếu kém. Điều này có lẽ “muôn thuở” đúng, nhưng thiết nghĩ chẳng phải bàn luận nhiều vì về cơ bản, nó là thứ “Trời cho”, không có thì đành chịu, nếu cố sức đạt đến thường chỉ hoài công. Vậy nên xin bàn đến những nguyên nhân khác mà chúng ta có thể thay đổi, “cải tiến” được.
Đọc thêm »